Vào ngày 4/10, Diễn đàn học viên nước ngoài tốt nghiệp các trường đại học Liên Xô và Nga với sự tham dự của đại diện hệ thống giáo dục – y tế từ các nước Châu Á tiếp tục diễn ra tại Hà Nội. 14 trường đại học hàng đầu của Nga gặp gỡ đại diện Bộ Y tế Việt Nam và lãnh đạo Đại học Quốc gia Hà Nội.
TSKH Y tế Victor Mazharow, Hiệu trưởng Đại học Y khoa quốc gia Stavropol thuộc Bộ Y tế Liên bang Nga cho biết, các chương trình đào tạo của trường được giảng dạy bằng tiếng Nga và tiếng Anh. Ngay từ năm nhất, sinh viên Đại học Y khoa quốc gia Stavropol ngoài lý thuyết còn dần có được những kỹ năng thực hành cho nghề nghiệp tương lai của mình. Tại Trung tâm Kỹ năng thực hành của trường, sinh viên được thao tác trực tiếp trên mô hình mô phỏng thực tế.
Theo ông Victor Mazharow, trong thời gian tới, trường sẽ thảo luận với các cơ sở đào tạo ngành y tại Việt Nam để ký kết thoả thuận hợp tác. Dự kiến, sẽ tổ chức nhiều hoạt động trao đổi sinh viên và giảng viên.
Gắn bó với nước Nga 13 năm để học tập và nghiên cứu về nhãn khoa, TS Đinh Thị Hoàng Anh, hiện công tác tại Bệnh viện Mắt Trung ương đánh giá, việc đào tạo y học ở Nga được thực hiện rất bài bản. Nga là một trong những quốc gia có công nghệ tiên phong về điều trị các bệnh lý ở mắt như: phẫu thuật liên kết chéo collagen giác mạc, ghép giác mạc và điều trị Glôcôm.

Theo số liệu thống kê năm 2023 của Bộ Y tế, tỷ lệ bác sĩ là 11,5/10.000 dân, tỷ lệ điều dưỡng là 14/ 10.000 dân, trong khi đó, tỷ lệ này ở các nước phát triển là trên 30 bác sĩ/ 10.000 dân. Do đó, hợp tác đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn cán bộ y tế có vai trò quan trọng.
TS Đinh Thị Hoàng Anh cho biết, tại Việt Nam hiện đang phổ biến công nghệ ghép giác mạc nội mô DSAEK/DSEK. Công nghệ này có nhược điểm là mảnh ghép dày và thị lực sau phẫu thuật không cao. “Tôi và thầy giáo của mình đã nghiên cứu công nghệ ghép giác mạc nội mô PDEK. Ưu điểm của công nghệ này là mảnh ghép mỏng hơn, thị lực cao hơn, ít biến chứng trong lúc phẫu thuật, thời gian hồi phục của bệnh nhân nhanh hơn”, bác sĩ Hoàng Anh chia sẻ.
Nhằm phát triển hợp tác giữa Việt Nam và Liên bang Nga trong lĩnh vực đào tạo cán bộ y tế, TS Hoàng Anh đề xuất một số biện pháp, như: Chính phủ Nga xem xét tăng số lượng học bổng hằng năm chuyên ngành Y khoa cho sinh viên Việt Nam, phát triển khoá học đào tạo ngắn hạn nâng cao tay nghề cho bác sĩ, như khóa học bồi dưỡng kỹ năng phẫu thuật. Bên cạnh đó, các cơ sở giáo dục hai nước xây dựng chương trình liên kết đào tạo. Theo đó, sinh viên học tập 2-3 năm tại Việt Nam và sau đó học tập tại Nga bằng tiếng Nga hoặc tiếng Anh.
Ông Trương Hùng, Phó Chủ tịch Hội thiết bị Y tế Thành phố Hồ Chí Minh, nhận xét, giảng viên người Nga có bề dày kinh nghiệm nghiên cứu. Vì vậy, sinh viên quốc tế được trang bị nền tảng kiến thức vững chắc.
Theo ông Trương Hùng, hợp tác giữa Nga và Việt Nam trong lĩnh vực y tế có nhiều dư địa phát triển. Hiện nay, công nghệ điều trị bằng oxy cao áp được áp dụng tại nhiều cơ sở khám chữa bệnh tại Việt Nam. Buồng oxy cao áp do Nga sản xuất chất lượng rất tốt.
Tuy nhiên, Bộ Y Nga chưa ban hành tiêu chuẩn kỹ thuật rõ ràng và cụ thể kiểm định chất lượng trang thiết bị y tế. Trong khi đó, Mỹ đã ban hành tiêu chuẩn FDA, Châu Âu ban hành tiêu chuẩn CE Marking. Do đó, sản phẩm do Nga sản xuất chưa thể đấu thầu nhập khẩu và lưu hành tại Việt Nam.
Bên cạnh đó, thủ tục thanh toán giữa Việt Nam và Nga còn gặp khó khăn. Ông Trương Hùng hy vọng trong thời gian tới, chính phủ hai nước sẽ ban hành giải pháp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp hai nước.
Trước đó, phát biểu tại khai mạc Diễn đàn, bà Nguyễn Thị Liên Hương, Thứ trưởng Bộ Y tế, cho biết: “Việt Nam luôn quan tâm đến việc quốc tế hóa giáo dục, đặc biệt là giáo dục y tế. Quan tâm đến y học, sức khỏe là chăm lo cho tương lai đất nước. Vì thế, hoạt động nâng cao trình độ chuyên môn và đào tạo cán bộ y tế luôn đóng vai trò quan trọng trong cơ cấu hợp tác Nga-Việt Nam”.
Hợp tác y tế giữa hai nước bao gồm các vấn đề về bảo vệ sức khỏe và khoa học y tế. Nổi bật trong đó có trao đổi kinh nghiệm về việc tổ chức hệ thống chăm sóc sức khỏe quốc gia, bảo hiểm y tế; các quy định pháp lý liên quan đến tổ chức hệ thống y tế; triển khai ứng dụng các công nghệ và quy trình y học đổi mới; kinh nghiệm trong phòng ngừa, chẩn đoán, điều trị và phục hồi một số bệnh truyền nhiễm và không truyền nhiễm.
Về phía Bộ Y tế Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Liên Hương đã tham dự buổi làm việc. Phó Giám đốc Rossotrudnichestvo Pavel Anatolyevich Shevtsov bày tỏ hy vọng các cuộc đàm phán sẽ giúp tăng cường hợp tác và thiết lập những mối liên kết mới giữa các tổ chức giáo dục đại học Nga và các cơ sở y tế Việt Nam.
Theo bà Nguyễn Thị Liên Hương, tại Nga có 168 cơ sở giáo dục đào tạo chuyên ngành y khoa. Do đó, sinh viên Việt Nam có nhiều cơ hội học tập ngành y khoa tại Nga. Điểm chung của việc đào tạo y, dược chuyên nghiệp ở cả hai quốc gia là đều phải tuân theo quy định pháp luật trong khuôn khổ chính sách y tế của nhà nước. Và đây là lĩnh vực tri thức đòi hỏi nền tảng kiến thức truyền thống vững chắc, nhưng cũng là môi trường yêu cầu các nhà nghiên cứu có những cải tiến về mặt công nghệ, thử sức với những thí nghiệm và giải pháp mới mẻ.
Chủ đề chính của cuộc gặp là mở rộng cơ hội hợp tác trong lĩnh vực y tế, đặc biệt là xác định các lĩnh vực ưu tiên đào tạo chuyên gia cho Việt Nam, thảo luận về khả năng tổ chức nghiên cứu chung. Giáo dục y tế ở Nga được biết đến với trình độ đào tạo chuyên môn cao – sinh viên tốt nghiệp các trường đại học Nga tại Việt Nam đang có nhu cầu lớn, chiếm các vị trí cao cả về y học thực hành và lĩnh vực tổ chức chăm sóc sức khỏe.
Tổng kết cuộc họp, Pavel Anatolyevich Shevtsov lưu ý rằng sự phát triển của y học là chìa khóa cho sự thịnh vượng của quốc gia và Nga sẵn sàng trao đổi kinh nghiệm và kiến thức.






